Tôi sinh ra và lớn lên ở một huyện “vùng sâu vùng xa” tỉnh Bắc Giang. Học hết cấp 2, bằng rất nhiều nỗ lực, quyết tâm và cả may mắn, tôi đỗ chuyên Toán trường chuyên của tỉnh, cách nhà 40 cây số. Ở vùng quê nhỏ bé của tôi, đó là một sự kiện hiếm có và đáng tự hào bởi cho tới lúc ấy, số học sinh của huyện từng đỗ chuyên toán chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Ngày nhận tin báo đỗ, điều đầu tiên xuất hiện trong đầu tôi là: mình sẽ được mặc áo dài. Trường cấp 3 ở quê khi ấy học sinh mặc quần áo đồng phục bình thường; trường chuyên ở thành phố, đồng phục cho nữ sinh là áo dài trắng. Tôi bắt đầu tưởng tượng về một cuộc sống học tập chuyên cần, rực rỡ, thậm chí có phần lãng mạn cho những năm phổ thông trước mắt.
Nhưng sự thật phũ phàng, gian nan, sóng gió, lại cũng ngọt ngào hơn tôi tưởng. Hành trình ba năm phổ thông đưa tôi đi qua đủ các cung bậc cảm xúc, là khoảng thời gian nhiều kỷ niệm, nhọc nhằn nhưng ý nghĩa với cả cuộc đời tôi. Tôi viết bài này, như một dòng hồi tưởng về thời thanh xuân mà tôi tin là rất gần gũi với rất nhiều bạn đọc In Metime.
1 - NHỌC NHẰN NGAY TỪ VẠCH XUẤT PHÁT.
Thi đỗ trường chuyên, được đi học ở thành phố khiến tôi lâng lâng sung sướng, từ ngày nhận báo điểm cho tới khi nhập học, ngồi yên vị trong lớp với ba mươi bạn mới. Tôi gần như quên đi một sự thật quan trọng: Điểm thi môn toán chuyên năm ấy của tôi chỉ là… 2.75/10. Nói cách khác, tôi thuộc nhóm đỗ vớt.
Chưa đầy bốn tuần sau, trong kỳ thi khảo sát tháng đầu tiên, niềm vui được mặc áo dài không còn đủ sức nâng đỡ cho vọng tưởng về năm tháng rực rỡ của tôi nữa. Tổng điểm cả ba môn Toán - Lý - Hóa cộng lại của tôi chưa đủ 10 điểm. Tôi sốc. Chắc chắn rồi. Tôi vốn thuộc nhóm học giỏi ở huyện, tôi (đã từng) là niềm tự hào của bố mẹ, thầy cô, và ngay cả bản thân mình.
Nhưng, kỳ thi tháng đầu tiên ở trường chuyên đã kéo tôi xuống mặt đất. Tôi sững sờ, lờ mờ nhận ra mình như một con cá nhỏ, và xung quanh không phải là cái ao quen thuộc nữa. Lần đầu tiên trong mười năm đi học, tôi không đứng trong nhóm những người xuất sắc nhất lớp, nhất trường, thậm chí nhất huyện. Thực ra giờ tôi vẫn ở trong nhóm đặc biệt, nhưng thuộc 1/3 cuối lớp.
Điểm kém một lần có thể vì không may mắn. Nhưng điểm kém đến 5 lần liên tục trong 5 tháng thì thiếu may mắn không thể là lý do được. Dù hai môn Vật lý và Hóa học tôi có nhúc nhích thêm được một chút, nhưng riêng Toán – môn chuyên thì tôi bất lực. Tôi không theo được tốc độ giảng của thầy, độ khó của bài vở, và trình độ các bạn trong lớp.
Cuộc sống của một cô bé lần đầu xa bố mẹ, cộng thêm nỗi thất vọng vào bản thân khiến tôi suy sụp. Mỗi cuối tuần về nhà, tôi lại sợ hãi khi nghĩ tới chiều chủ nhật - lúc phải đón xe khách trở lại trường. Tôi khóc hàng đêm khi nằm bên cạnh bố mẹ. Tôi sợ đi học. Tôi không muốn phải thi mỗi tháng và nhận điểm “bét lớp” nữa.
Bố mẹ tôi xót con nên gợi ý: “Hay xin về học trường ở quê đi con”. Tôi đã suýt gật đầu. Về quê, nghĩa là quay lại với nơi an toàn cho mình vùng vẫy. Về quê, gần bố mẹ. Về quê, có khi lại nhóm đầu, không phải ở 1/3 cuối lớp.
Thật may mắn, tôi quyết định không về, có lẽ do mấy người bạn cùng nhóm “bét lớp” lôi kéo. “Ở lại đi. Mất bao công mới thi được vào đây, về là hối hận đấy”. Tôi thấy chí lý, thế là ở lại.
2 - HÀNH TRÌNH KIẾN TẠO CHÍNH MÌNH.
Người thầy lớn nhất của tôi trong những năm học phổ thông – cố Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Sinh Long, ông là Người Thầy vô cùng nghiêm khắc và đáng kính của lớp lớp thế hệ học trò chuyên toán.
Những bài học của thầy đã theo chúng tôi suốt nhiều năm sau này:
“Hãy viết thật tường minh, đừng bao giờ bắt người đọc phải đoán ý mình”.
“Biết cách làm thôi chưa đủ, phải rèn luyện thật nhiều để đến khi đi thi, tất cả chỉ còn là chép chính tả, kể cả bài khó nhất. Đi thi rồi mới ngồi nghĩ thì có kết quả tốt làm sao được?”.
“A bình b bình là cái gì? Bình phương!!! Nói ra phải chính xác, điều đơn giản không nói chính xác thì sao nói được điều phức tạp”.
Lên bảng làm bài viết láu một chữ thầy cũng chỉnh. Bài kiểm tra thầy phê tới từng dòng, từng cách viết chữ số, từng câu lập luận. Nhiều bạn ở lớp (trong đó có tôi) “sợ” thầy tới nỗi ngồi học có khi không dám ngẩng đầu lên. Nhưng cũng nhờ áp lực đó, suốt ba năm cấp ba, tôi học rất nhiều, rất chăm chỉ, cố gắng chỉn chu trong từng phép tính.
Từ ngày ấy tôi đã hiểu rằng: Có rất nhiều thứ trong đời không thể kiểm soát, nhưng nỗ lực hết sức hay không là lựa chọn của mình, và đó lại là điều quan trọng nhất.
Qua năm lớp 11, kết quả các bài kiể
m tra của tôi nhích dần lên nhóm giữa. Lớp 12, tôi thậm chí có tháng còn giành học bổng. Trong kỳ thi đại học năm đó, tôi đã trở thành thủ khoa Học viện Bưu chính viễn thông. Mọi người chúc mừng, khen ngợi, thậm chí hào phóng dành cho tôi những lời có cánh: “thông minh từ bé”, “thi đại học chỉ là chuyện đơn giản”, “chắc chắn đỗ rồi chỉ thi cho vui”. Chỉ có thầy cô, bạn cùng lớp, và gia đình biết tôi đã nhọc nhằn đến thế nào để có được tấm giấy báo đỗ đại học ngày ấy.
Tôi chưa từng bỏ ngày nào không ngồi học trong suốt ba năm, trừ một tuần sau khi suýt ngất ở lớp vì thức quá khuya, ngay sau đó tôi đã tự điều chỉnh. Tôi đi học thêm, mua sách tham khảo, mang bài đi hỏi thầy cô và bạn bè mọi lúc. Đó chính là lý do khi trở thành một trong số ít nữ thủ khoa của các trường công nghệ/kỹ thuật, tôi từ chối hầu hết lời mời phỏng vấn của các phóng viên bởi những bài báo thường muốn viết theo hướng “thủ khoa không đi học thêm, chỉ dùng sách giáo khoa, ngủ trước 9h tối”. Đó không phải trường hợp của tôi! Tôi có xuất phát điểm đầy tự ti, một hành trình vất vả, và một cái kết ngoài dự định.
3 - LỜI NHẮN NHỦ TỪ NGƯỜI THẦY.
Hành trình ba năm nhọc nhằn đã có một cái kết ngọt ngào, nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đây.
Mặc dù đã đỗ thủ khoa, tôi vẫn giữ trong đầu một nỗi buồn rất... trẻ con: suốt ba năm học, tôi chưa bao giờ được điểm 10 môn toán, mặc dù đã luôn cố gắng sửa chữa từng lỗi trình bày nhỏ nhất. Tôi tốt nghiệp cấp 3 và bước vào đại học với sự ấm ức rằng thầy đã quá khắt khe. Giống một đứa trẻ cố gắng làm được điều gì đó và ngẩng đầu lên chờ đợi được mẹ khen giỏi, điểm 10 của Người Thầy như một sự thừa nhận mà tôi ao ước và nỗ lực nhưng không bao giờ đạt được.
Vài năm sau, tôi có dịp về thăm thầy ở căn nhà trong con ngõ nhỏ, nằm bên đường ray tàu hỏa. Thầy tôi lúc ấy đã lớn tuổi, tập tễnh bước ra mở cổng và cười tươi khi nhìn thấy tôi. Sau khi chuyện trò một lúc, tôi hỏi thầy về nỗi thắc mắc trong lòng mình bấy lâu:
"Thầy ơi, sao thầy… không bao giờ cho em 10 điểm?"
Tôi tưởng thầy sẽ phải ngẫm nghĩ nhớ lại rồi mới trả lời, thầy đã dạy nhiều khóa đến thế cơ mà. Nhưng không, thầy bật cười và nói ngay:
"Uyên nhớ quá trình của mình từ lúc mới vào lớp 10 đến khi đỗ thủ khoa đại học không? Có 95% đã rất khó rồi. Nhưng nếu muốn đạt được 5% cuối cùng, em không thể tự cho mình 10 điểm".
Chiều hôm ấy rời nhà thầy, tôi đi thẳng về trường cấp 3, nơi đã nuôi dưỡng phiên bản lạc quan, chăm chỉ và tràn đầy nỗ lực của mình. Đứng trước cánh cổng ấy, tôi nghĩ về thầy cô, về bạn bè, về Uyên của những ngày nằm khóc suýt từ bỏ trường chuyên…
Và tôi nhận ra rằng: không có điểm 10, nhưng sự “không có” đó lại là phần quan trọng giúp tôi “có” rất nhiều thứ sau này. Và tôi, dẫu không có điểm 10 toán nào cả, thực tế cũng chưa bao giờ đạt được 5% cuối cùng, nhưng tôi đã luôn đi trên hành trình để đạt được nó. Vì không từ bỏ mái trường ấy, lớp chuyên toán ấy, những khó khăn vật lộn và nỗi sợ thất bại ấy, mà tôi đã thật sự có những tháng ngày thanh xuân rực rỡ.
4 - NHỮNG BÀI HỌC CỦA TÔI.
Sau này khi đã trưởng thành, tôi từng nghe nhiều bạn nói rằng: “Nghĩ lại, mấy năm cấp 3 là thời gian mình nỗ lực nhất, quyết tâm nhất, chăm chỉ nhất. Giá mà bây giờ mình luôn sống được như thế chắc sẽ thành công hơn rồi”. Tôi cũng có cảm nhận ấy và ghi lại ba trong vô số bài học ở quãng thời gian quý giá đó, những mong là điểm tựa cho tôi mỗi khi gặp trắc trở, thử thách, lạc bước trên đường đời:
1 - Luôn có một phiên bản của chính mình tràn đầy lạc quan, nỗ lực, và chăm chỉ; dù đôi khi bị vùi lấp bởi bộn bề khó khăn của cuộc sống.
2 - Muốn phát triển bản thân, điều quan trọng nhất là không bao giờ được chấm cho mình 10 điểm, chúng ta luôn có điều gì đó có thể làm tốt hơn.
3 - Rất dễ nếu từ bỏ nhưng đáng giá hơn, khó hơn là sự kiên trì nỗ lực để bước qua khó khăn. Bất chấp kết quả cuối cùng, luôn tồn tại sự khác biệt giữa hai lựa chọn đó: không có, và chắc chắn có một hành trình quý giá.
Đó là ba bài học từ trải nghiệm của cá nhân tôi. Nhưng tôi tin rằng, rất nhiều trong số các bạn cũng từng vượt qua chính mình giống tôi để đạt được mong ước cháy bỏng nhất thời niên thiếu: đỗ đại học. Sau cái mốc huy hoàng ấy, đôi khi chúng ta mất phương hướng bởi không có mục tiêu nào đủ lớn để dẫn dắt, cũng không còn nhiệt huyết và quyết tâm, không có niềm tin vào bản thân như năm 18 tuổi.
Ai đó có thể nói học đại học không quan trọng, nhiều tỷ phú, triệu phú nổi tiếng đều đã từng bỏ học. Đôi khi, có người thành công mà không qua đào tạo của nhà trường, cũng có những người học cao rồi vẫn chẳng thể đứng vững trong cuộc đời… Nhưng đó là cuộc sống. Với tôi, đỗ đại học vẫn luôn là một niềm tự hào lớn. Tôi đã phải vượt qua nhiều khó khăn đến vậy cơ mà. Tôi tin, hành trình của bạn chắc cũng chẳng dễ dàng hơn.
Bạn thân mến,
Thời thanh xuân của tôi và bạn đã từng chung nhau một mục tiêu cao vời vợi, từng cùng nhau chăm chỉ đèn sách, vượt vũ môn và đạt được ước mơ.
Đừng để nó vụt qua. Đừng quên mất mình từng có một phiên bản đáng tự hào đến thế. Nhớ về chính mình của thời niên thiếu, thậm chí có thể giúp chúng ta có động lực để khỏa lấp tất cả những thử thách 5% của cuộc sống trưởng thành.
Tôi mong bạn hạnh phúc, thành công, và luôn có thể tự hào về chính mình, như năm 18 tuổi.
Chúc bạn một ngày bình yên,
Tố Uyên.
* Một số bài viết cùng chủ đề:
Những bí mật của tôi về việc học và thi
Nguồn ảnh về trường Chuyên Bắc Giang: https://www.facebook.com/hoicuuhscbg/videos/602581430863848